Chuyển đến nội dung chính

Ly hôn

464
ngày 20/11/2018
  • 2
  • 7
  • Ly hôn
  • Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Sơ thẩm
  • Hôn nhân và gia đình
  • TAND TX. Tân Châu, tỉnh An Giang
  • Không
  • 0
  • Cho ly hôn

  • Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0




TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU TỈNH AN GIANG Bản án số: 464/2018/HNGĐ-ST Ngày: 20-11-2018 V/v tranh chấp ly hôn giữa chị X và anh K CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đào Văn On. Các Hội thẩm nhân dân dân: 1. Bà Võ Thị Lan 2. Bà Trần Thị Trang - Thư ký phiên tòa: Ông Đào Công Minh là Thư ký Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Bảo Thịnh - Kiểm sát viên. Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 149/2018/TLST - HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2018, về tranh chấp "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:431 /2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự: - Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Kim X, sinh năm 1986 Địa chỉ: Tổ 11, ấp Tân Phú C, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Nơi ở hiện nay: Tổ 42, ấp Đồng Ky, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang. (có mặt) - Bị đơn: Anh Phạm Hoàng K, sinh năm 1982 Địa chỉ: Tổ 11, ấp Tân Phú C, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. (vắng mặt) NỘI DUNG VỤ ÁN: Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 4 năm 2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Hồ Thị Kim X trình bày: Hôn nhân giữa tôi và anh Phạm Hoàng K do cha mẹ định đoạt, có tổ chức lễ cưới vào năm 2007, có đăng ký kết hôn trễ hạn 1 vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống có hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, sống không hợp nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không thể hàn gắn và đã ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Về con chung có 01 con tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007, hiện đang sống với mẹ. Về tài sản chung không có, về nợ chung không có nợ. Tôi yêu cầu xin ly hôn với anh Phạm Hoàng K, con chung yêu cầu xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. Bị đơn anh Phạm Hoàng K được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để ghi nhận lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Sơn vẫn vắng mặt không lý do nên không ghi nhận ý kiến được. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Về tố tụng: Tòa án đã tuân thủ đúng pháp luật về thủ tục theo quy định tại điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến khi giải quyết vụ án. Đối với các đương sự thì thực hiện đúng theo quy định tại các điều 70- 71- 72- 73 và 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Hôn nhân giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K do cha mẹ định đoạt, có tổ chức lễ cưới năm 2007, có đăng ký kết hôn trễ hạn vào năm 2008 theo quy định của pháp luật, vợ chồng có hạnh phúc được 06 năm thì phát sinh mâu, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, sống không hợp nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Về con chung có 01 con tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007, hiện đang sống với mẹ. Về tài sản chung không có, về nợ chung không có nợ. Chị X yêu cầu xin ly hôn với anh K, con chung yêu cầu xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. Anh Phạm Hoàng K được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để ghi nhận lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Sơn vẫn vắng mặt không lý do. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu nhận định vụ án như sau: Hôn nhân giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 2 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xem là hôn nhân hợp pháp. [1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, phiên tòa tiến hành xét xử theo thủ tục chung. [2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp " Ly hôn " giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. [3] Chị Hồ Thị Kim X yêu cầu xin ly hôn với anh Phạm Hoàng K, về con chung yêu cầu được nuôi con tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007, hiện đang sống với mẹ và chị X không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. [4] Anh Phạm Hoàng K được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để ghi nhận lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh K vẫn vắng mặt không lý do. [5] Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Đăng ký kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của luật này đều không có giá trị pháp lý. - Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Tổ chức đăng ký kết hôn. Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên. - Khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Quyền yêu cầu Tòa án giải quyết viêc ly hôn. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. - Khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Căn cứ cho ly hôn. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. - Khoản 1 Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Việc trông nôm, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng 3 lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. - Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn. [6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K. Về nuôi con chung: Chị Hồ Thị Kim X được tiếp tục nuôi con tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007, hiện đang sống với mẹ và chị X không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. Về chia tài sản: Không có, về nợ chung không có nợ. Về án phí: Chị Hồ Thị Kim X phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Hội đồng xét xử nhận thấy quan điểm của Viện kiểm sát là có cơ sở xem xét và phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản Quy phạm pháp luật khác có liên quan. [7] Hội đồng xét xử xét nhận thấy: Hôn nhân giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K sau khi Tòa án thụ lý vụ án hôn nhân và gia đình Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh K nhiều lần để ghi nhận lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh K vẫn vắng mặt không lý do nên không ghi nhận ý kiến được. Ngày 01/10/2018 Tòa án tiến hành xác minh tình trạng cư trú của anh Phạm Hoàng K được anh Dương Phương Tâm là trưởng Ban nhân dân ấp Tân Phú, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu cung cấp đương sự Phạm Hoàng K, sinh năm 1982, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Tân Phú, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, hiện nay đương sự Phạm Hoàng K không có mặt tại địa phương thỉnh thoảng 3-4 tháng có về địa phương, ngoài ra cha mẹ của đương sự Phạm Hoàng K đã chết. Ngày 01/10/2018 Tòa án tiến hành xác minh anh phạm Hữu Phước được anh Phước cung cấp anh Phước là anh ruột của Phạm Hoàng K, Hồ Thị Kim X là vợ của Phạm Hoàng K là em dâu của tôi. Liên quan đến việc ly hôn giữa X-K theo tôi được biết là do mâu thuẫn trong tiền bạc, làm ăn kinh tế rồi tự X bỏ đi và ly thân hơn 10 năm nay, X - K có 01 người con hiện sống với mẹ, từ khi ly thân thì vợ chồng X - K không tự hòa giải hàn gắn lại. Hôn nhân của chị X và anh K đã ly thân một thời gian dài nhưng anh chị không tự hòa giải để hàn gắn cuộc sống vợ chồng mà để mâu thuẫn diễn biến ngày một gay gắt, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích 4 của hôn nhân không đạt được, nghĩ nên cho chị X và anh K ly hôn là phù hợp. Về con chung có 01 con tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007, hiện đang sống với mẹ, chị X yêu cầu xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. Về tài sản chung không có, về nợ chung không có nợ nên Hội đồng không đặt ra để xem xét giải quyết. [8] Về án phí: Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Hồ Thị Kim X phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số: 0004586 ngày 19/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu tỉnh An Giang. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ các Điều 11-14-85-89-92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khoản 1 Điều 28 khoản 1 Điều 147 khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 điểm Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hồ Thị Kim X và anh Phạm Hoàng K. 2. Về nuôi con chung: Chị Hồ Thị Kim X được tiếp tục nuôi con chung tên Phạm Hồ Hoàng Mạnh, sinh ngày 18/10/2007 và chị X không yêu cầu anh K phải đóng góp nuôi con. 3. Về chia tài sản: Không có. Về nợ chung: Không có. 4. Về án phí: Theo quy định tại điểm a khoản 5 điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Hồ Thị Kim X phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số: 0004586 ngày 19/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. 5 Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Nơi nhận: - TAND tỉnh An Giang; - VKSND thị xã Tân Châu; - Chi cục THADS thị xã Tân Châu; - Các đương sự; (để thi hành) - UBND xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang; - Lưu: Hồ sơ vụ án, V.Phòng. THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Đào Văn On 6

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đinh Viết C

Quyết định số: 11 ngày 21/09/2018 7 17 Tên quyết định: Đinh Viết C (10.01.2019) Biện pháp xử lý hành chính: Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại việc: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ...

Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

Bản án số: 51/2018/HSST ngày 26/09/2018 10 19 Tên bản án: Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) (03.01.2019) Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại án: Hình sự ...