Mua bán trái phép chất ma túy - Bị truy tố tội mua bán trái phép chất ma túy (điều 251 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
34
ngày 25/06/2019
ngày 25/06/2019
- 14
- 9
- Mua bán trái phép chất ma túy - Bị truy tố tội mua bán trái phép chất ma túy (điều 251 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
- Sơ thẩm
- Hình sự
- TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang
- Không
- 0
-
Lê Minh H có hành vi mua bán trái phép chấp ma túy nhiều lần, đối với hai người trở lên
- Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HUYỆN GIỒNG RIỀNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc TỈNH KIÊN GIANG Bản án số: 34/2019/HSST Ngày 25/6/2019 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Chuyên Các Hội thẩm nhân dân: Ông Huỳnh Văn Thái Ông Phan Ngọc Lợi - Thư ký phiên toà: Bà Huỳnh Thị Phượng là Thư ký Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng tham gia phiên tòa: Ông Lê Thành Thủ – Kiểm sát viên. Trong ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2019/TLST-HS theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST - HS ngày 10 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo: 1. Lâm Minh H (tên khác T) sinh năm: 1983; tại xã H, huyện G, tỉnh K; Nơi cư trú: ấp Trảng Tr, xã H, huyện G, tỉnh K; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Lâm Thanh H và bà Nguyễn Thị L; Có vợ tên Nguyễn Thị N; Con 03 người (lớn nhất 11 tuổi, nhỏ nhất 02 tuổi); Tiền án: Không; Tiền sự: Có một tiền sự vào ngày 8/6/2018 bị xử phạt hành chính 750.000 đồng về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy" đã chấp hành xong; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/2/2019 chuyển sang tạm giam từ ngày 21/2/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt. 2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 2.1 Anh Phạm Quốc K, sinh năm: 1987; Trú tại: ấp B, xã H, huyện G, tỉnh K (vắng mặt). 2.2 Nguyễn Hoàng L, sinh năm: 2003; Trú tại: ấp Xẻo D, xã H, huyện G, tỉnh K (vắng mặt) NỘI DUNG VỤ ÁN: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 00 giờ 10 phút, ngày 12/02/2019, Công an huyện G bắt quả tang Lâm Minh H (tên khác T) khi H đang bán ma túy (ma túy đá) cho Nguyễn Hoàng L, H giao ma túy cho L tại nhà của H ở ấp Trảng Tr, xã H, huyện G, tỉnh K. Tang vật thu giữ 10 bịch ma túy (ma túy đá), H để trong gói thuốc Jet, dấu dưới gầm giường trong phòng ngủ. Quá trình điều tra H khai nhận mua ma túy (ma túy đá), ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10/02/2019, từ 03 người thanh niên (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), chỉ biết ở Quận 7, Quận 8, Quận 2. Tổng số ma túy H mua 11 bịch ma túy đá với giá 4.100.000đ. Vào ngày 13/6/2019 khi đang bán cho Nguyễn Hoàng L 01 bịch ma túy với giá 300.000đ thì bị bắt quả tang. Ngoài mua ma túy đá trên, H còn mua ma túy đá 02 lần của những thanh niên (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), mua về bán lại cho các con nghiện, cụ thể những lần như sau: Lần thứ nhất: Tết nguyên đán năm 2018 (không nhớ ngày, tháng cụ thể, khi H đang làm công nhân tại thành phố Hồ Chí Minh, quen biết người tên P tên gọi khác H (không rõ họ, và địa chỉ cụ thể). P giới thiệu cho H những người thanh niên ở Quận 7, Quận 8, Quận 2 (không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể), H mua ma túy với giá 1.000.000đ. Lần thứ hai: Cách lần thứ nhất khoảng 2 đến 3 tháng (không nhớ ngày, tháng) do không liên lạc được với P (H), H tự đi đến các địa điểm tại Quận 7, Quận 8, Quận 2 mua ma túy của những người thanh niên (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), H mua ma túy với giá 1.300.000đ. Ma túy đá H bán cho Nguyễn Hoàng L trong ngày bị bắt quả tang. H còn bán cho L 02 lần khác, bán 01 lần cho Phạm Quốc K - Ngụ tại: ấp B, xã H, huyện G, tỉnh K; bán 01 lần cho thanh niên lạ (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), chỉ biết ở chợ 12, thuộc xã H. Cụ thể như sau: - Bán ma túy đá 02 lần cho Nguyễn Hoàng L. Cụ thể những lần như sau: - Vào ngày 02/02/2019 và ngày 06/02/2019, L điện thoại cho H mua ma túy mỗi lần với giá 300.000đ, cả hai lần H đều giao ma túy cho L tại nhà H thuộc: ấp Trảng Tr, xã H, huyện G, tỉnh K. Như vậy H bán ma túy cho L 02 lần tổng số tiền là: 600.000đ. (sáu trăm nghìn đồng). - Vào ngày 02/02/2019, Phạm Quốc K điện thoại cho H mua 01 bịch ma túy đá với giá 300.000đ. H giao ma túy cho K tại nhà H thuộc: ấp Trảng Tr, xã H, huyện G, tỉnh K. Vào ngày 02/02/2019, H trực tiếp bán 01 bịch ma túy với giá 200.000đ, cho người thanh niên (không biết rõ họ, tên cụ thể), chỉ biết ở chợ 12, xã H). H trực tiếp giao ma túy tại nhà thờ mới, gần nhà H thuộc: ấp Trảng Tr, xã H, huyện G, tỉnh K. Đối với Phạm Quốc K quá trình điều tra K khai nhận là có mua ma túy của H để sử dụng, nhưng qua xét nghiệm âm tính, nên không đủ điều kiện xử lý hành chính. Còn Nguyễn Hoàng L quá trình điều tra L khai nhận có mua ma túy của H để sử dụng, qua xét nghiệm âm tính. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G chuyển hồ sơ cho Công an xã H để xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Đối với người thanh niên (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) mua ma túy của H chỉ biết ở chợ 12, xã H. Những người tên P và những người thanh niên (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) chỉ biết ở Quận 7, Quận 8, Quận 2 thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra huyện G sẽ tiếp tục phối hợp điều tra khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau. 2 Về vật chứng của vụ án thu giữ gồm: - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng đen, số IMEI 1: 354275/06/809960/5; IMEI 2: 354275/06/809961/3, cùng 02 sim số 0907803787, 0933839931 và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng đồng số IMEI 1: 863091034158910; IMEI 2: 863091034158902, màn hình đã vỡ kính, có nhiều vết trầy xước, cùng hai sim điện thoại số 0792228831, 0937515836 tất cả đều qua sử dụng không kiểm tra được tình trạng hoạt động. - Tiền Việt Nam loại polyme 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) gồm: 03 (ba) tờ polyme mệnh giá 100.000đ (một trăm nghìn), 03 (ba) tờ polyme mệnh giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), 01 (một) tờ polyme mện giá 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), 03 (ba) tờ polyme mệnh giá 10.000đ (mười nghìn đồng). Vào ngày 22/02/2019 cơ quan Cảnh sát Công an huyện G đã nộp số tiền trên vào kho bạc nhà nước huyện. - 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại dài khoảng 16cm, nghi dùng để hàn kín bịch nylon chứa ma túy; - 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, gồm: 01 vỏ chai nước cam ép nhãn Twister nắp xanh, 01 ống hút màu trắng và 01 lọ thủy tinh đã qua sử dụng; - 09 (chín) vỏ bịch nylon đã cắt một đầu nghi dùng để chứa chất ma túy gồm: 06 vỏ nylon có kích thước khoảng 01 x 03 cm, 02 vỏ nylon có kích thước 1,5 x 3,5cm, 01 vỏ nylon có kích thước khoảng 1,5 x 04cm; - Mẫu vật còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu gửi giám định được niêm phong trong 02 (hai) phong bì có ký hiệu vụ số: 172/2019 (Mẫu 01), 172/2019 (Mẫu 02), có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N, người chứng kiến niêm phong Phạm Thị Ngọc L và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở tài liệu chứng cứ thu thập được, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giồng Riềng đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" đối với Lê Minh H. T¹i b¶n c¸o tr¹ng sè: 23/CT- VKS ngµy 03/5/2019 ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n huyÖn Giång RiÒng ®· truy tè bÞ can Lê Minh H vÒ téi "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy ®Þnh t¹i điểm b,c kho¶n 2 Điều 251 cña Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Minh H về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b,c kho¶n 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, cña Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Minh H từ 07 năm đến 08 năm tù. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động và số tiền 500.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy số ma túy sau khi đã giám định và một số công cụ dùng vào việc phạm tội. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. 3 NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Giồng Riềng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về hành vi của bị cáo: Lâm Minh H là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức được việc mua bán ma túy (Methamphetamine) là vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích hám lợi cá nhân và nhu cầu có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện nên từ ngày 02/2/2019 đến ngày 11/2/2019 bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều đối tượng tại địa bàn xã H, huyện G cụ thể: Ngày 11/2/2019, Nguyễn Hoàng L gọi điện thoại cho H hỏi mua ma túy đá với giá 300.000 đồng và hẹn giao ma túy tại nhà của H, L đến nhận một bịch ma túy và giao 300.000 đồng cho H, sau đó thì bị bắt quả tang cùng với tang vật của vụ án. Ngoài ra, H còn khai nhận bán cho Nguyễn Hoàng L để sử dụng hai lần, bán cho Phạm Quốc K một lần và bán cho một thanh niên không biết tên một lần. Qua lời trình bày trên của bị cáo cho thấy đã phù hợp với lời khai của những người có liên quan, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được và căn cứ vào kết luận giám định số: 172/KL-KTHS ngày 14/2/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận; Mẫu 01: Các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất đựng trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0534 gam. Mẫu 2: Các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất đựng trong 10 (mười) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, Khối lượng mẫu gửi giám định là 8,9929 gam; Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của chính phủ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng truy tố bị cáo Lâm Minh H về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo Hiển là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ mục đích rõ ràng, bị cáo biết rất rõ ma túy là chất gây nghiện, pháp luật nghiêm cấm sử dụng, mua bán nhưng vì hám lợi cho nên bị cáo đã bất chấp vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội trên đây của bị 4 cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự an toàn tại địa phương. Xét lời đề nghị của Đại diện viện kiểm sát là có căn cứ cho nên cần xử lý nghiêm để phòng ngừa chung cho toàn xã hội. [4] Về tình tiết tăng năng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. [4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo Lê Minh H có hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. [5] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền thu lợi bất chính mà bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mà có nên cần thiết tịch thu nộp ngân sách nhà nước cụ thể: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng đen, số IMEI 1: 354275/06/809960/5; IMEI 2: 354275/06/809961/3, cùng 02 sim số 0907803787, 0933839931 và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng đồng số IMEI 1: 863091034158910; IMEI 2: 863091034158902, màn hình đã vỡ kính, có nhiều vết trầy xước, cùng hai sim điện thoại số 0792228831, 0937515836 tất cả đều qua sử dụng không kiểm tra được tình trạng hoạt động và số tiền 500.000 đồng theo giấy nộp tiền số 3949.0.9055764 ngày 22/2/2019 tại Kho bạc huyện Giồng Riềng. Tịch thu tiêu hủy công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội gồm: 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại dài khoảng 16cm, dùng để hàn kín bịch nylon chứa ma túy; 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy, gồm: 01 vỏ chai nước cam ép nhãn Twister nắp xanh, 01 ống hút màu trắng và 01 lọ thủy tinh đã qua sử dụng; 09 (chín) vỏ bịch nylon đã cắt một đầu nghi dùng để chứa chất ma túy gồm: 06 vỏ nylon có kích thước khoảng 01 x 03 cm, 02 vỏ nylon có kích thước 1,5 x 3,5cm, 01 vỏ nylon có kích thước khoảng 1,5 x 04cm. Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu giám định được niêm phong trong hai phong bì có kí hiệu số 172/2019 Mẫu 1 và 172/2019 Mẫu 2. [6] Về án phí: Bị cáo Lâm Minh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Vì các lẽ trên; QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ điểm b,c khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 01 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 02 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điÓm a kho¶n 1 §iÒu 23 cña NghÞ quyÕt sè 326/2016/UBTVQH14 ngµy 30/12/2016 quy ®Þnh vÒ møc thu, miÔn, gi¶m, thu, nép, qu¶n lý vµ sö dông ¸n phÝ vµ lÖ phÝ Tßa ¸n. 5 1. Tuyên bố bị cáo Lâm Minh H (tên khác T) phạm tội " Mua bán trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Lâm Minh H (tên khác T) 07 (bảy) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt được tính từ ngày 12/2/2019. 2. Xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng đen, số IMEI 1: 354275/06/809960/5; IMEI 2: 354275/06/809961/3, cùng 02 sim số 0907803787, 0933839931 và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng đồng số IMEI 1: 863091034158910; IMEI 2: 863091034158902, màn hình đã vỡ kính, có nhiều vết trầy xước, cùng hai sim điện thoại số 0792228831, 0937515836 tất cả đều qua sử dụng không kiểm tra được tình trạng hoạt động và số tiền 500.000 đồng theo giấy nộp tiền số 3949.0.9055764 ngày 22/2/2019 tại Kho bạc huyện Giồng Riềng. Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định gồm: Mẫu 1: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,0341 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong. Gói 2: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 8,4373 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại dài khoảng 16cm, dùng để hàn kín bịch nylon chứa ma túy; 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy gồm 01 vỏ chai nước cam ép nhãn Twister nắp xanh, 01 ống hút màu trắng và 01 lọ thủy tinh đã qua sử dụng; 09 (chín) vỏ bịch nylon đã cắt một đầu nghi dùng để chứa chất ma túy gồm 06 vỏ nylon có kích thước khoảng 01 x 03 cm, 02 vỏ nylon có kích thước 1,5 x 3,5cm, 01 vỏ nylon có kích thước khoảng 1,5 x 04cm. 3. Về án phí: Bị cáo Lâm Minh H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày; bị cáo được tính kể từ ngày tuyên án (25/6/2019) những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết của Tòa án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - TAND tỉnh; Thẩm phán- Chủ Tọa phiên tòa - VKSND huyện ; (Đã ký) - Trại tạm giam; - Cơ quan điều tra; - CQ Thi hành án dân sự huyện; Nguyễn Thị Chuyên - Bị cáo; - Người bị hại; - Lưu. 6
Nhận xét
Đăng nhận xét