Chuyển đến nội dung chính

Lâm Som B - phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (điều 134 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

40/2019/HS-PT
ngày 11/06/2019
  • 73
  • 32
  • Lâm Som B - phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (điều 134 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
  • Phúc thẩm
  • Hình sự
  • TAND tỉnh Bình Phước
  • Không
  • 0
  • Lâm Som B bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 2 năm tù về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.

  • Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0




TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC Bản án số: 40/2019/HS-PT Ngày: 11-6-2019 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC - Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nga Các thẩm phán: Bà Lê Hồng Hạnh Ông Hoàng Minh Thịnh - Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Hiếu - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước. - Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tham gia phiên Tòa: Ông Hà Văn Hiến - Kiểm sát viên. Trong ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2019/HSPT ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Lâm Som B. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HSST ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Lâm Som B (tên gọi khác: Không), sinh năm 1986 tại Bình Phước; Nơi cư trú: Tổ 6, ấp Sóc 5, xã T H, huyện H Q, tỉnh B P; Nghề nghiệp Làm thuê; trình độ văn hóa 4/12; dân tộc Tà Mun; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Lâm Út S và bà Kim Thị A; bị cáo có vợ tên Trương Thị L và có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 13/4/2006 bị cáo bị Công an huyện Bình L phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích. Bị cáo được tại ngoại (có mặt tại phiên tòa). NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 22/4/2018 Lâm C trên đường về nhà có đi ngang qua nhà của bị cáo Lâm Som B, nhìn thấy trong nhà B có một số người đang ngồi uống bia nên Lâm C vào nhà của B mục đích là để cùng uống bia. Tại đây C chỉ uống được 6 ly bia thì có biểu hiện say, sau đó có mâu thuẫn với anh Nguyễn Ngọc M. Thấy vậy B kêu C về. Lâm C tiếp tục điều khiển xe mô tô về nhà bà Lâm Thị Sa D là mẹ ruột C và gặp Lâm T là em ruột của C nên C rủ T đi cùng với C đến nhà B tìm anh M để giải hòa. Thấy C chở Tài đến nhà, B nghĩ C và T đến nhà B đánh nhau với B nên B chạy vào trong nhà bếp lấy 01 con dao dài 34cm, phần cán gỗ dài 14cm, gõ nhẹ liên tiếp 03 cái trúng vào vùng đầu của anh C nhưng không gây thương tích. Thấy B cầm dao chạy ra C dùng tay chụp lấy con dao của B hai bên giành giật nhau con dao mà B đang cầm và do B giật mạnh con dao về phía B 01 cái làm cho lưỡi dao cắt vào bàn tay trái của C bị thương tích, rồi C bỏ chạy thì B đuổi theo, B cầm dao chém 01 cái, hướng về phía C nhưng C đưa tay phải lên đỡ nên dao trúng vào cổ tay phải của C gây thương tích sau đó được T chạy đến can ngăn và C được Tài đưa đi cấp cứu tại Trạm y tế xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản, rồi chuyển đến Bệnh viện đa khoa Mỹ Phước, tỉnh Bình Dương để điều trị. Theo giấy y chứng thương tích số 67/CN cấp ngày 10/5/2017 của bệnh viện đa khoa Mỹ Phước: vết thương cổ tay phải gãy đầu dưới xương trụ, đứt gân duỗi cổ tay trụ, gân dũi ngón cái dài, gân duỗi các ngón 2,3,4,5. Tay trái : Vết thương ngón 3,4 đứt gân. Căn cứ kết luận giám định pháp y về thương tích số:127/2018/TgT ngày 15/6/2018 của Trung tâm giám định Y khoa – Pháp y tỉnh Bình Phước đối Lâm C tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 18%. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HSST ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản đã Tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Lâm Som B phạm tội "Cố ý gây thương tích". Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều ộ u t nh 2 15 đ i ung n 2017; X phạt bị cáo Lâm Som B 02 (hai n t . h i hạn t tính t ng y t ị c đi thi h nh n. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật. Ngày 12/4/2019, bị cáo Lâm Som B có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Som B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo đã thực sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 5 triệu đồng cho bị hại để khắc phục một phần hậu quả; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi con còn nhỏ; trong vụ án này bị hại C cũng có phần lỗi. 2 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước phát biểu: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lâm Som B, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lâm Som B khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nhận định. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; người làm chứng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, tang vật vụ án đồng thời phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận giám định về thương tích và phù hợp với tất cả các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, các vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 12 giờ ngày 22/4/2018, do Lâm C mâu thuẫn với anh Nguyễn Ngọc M trong lúc nhậu tại nhà Lâm Som B thì bị B đuổi về nên C về nhà rủ anh Lâm T đến nhà B để nói chuyện. Thấy C chở Tài đến nhà, B nghĩ C và Tài đến nhà B đánh nhau với B nên B chạy vào trong nhà bếp lấy 01 con dao dài 34cm, phần cán gỗ dài 14cm là hung khí nguy hiểm gõ nhẹ liên tiếp 03 cái trúng vào vùng đầu của anh C. C dùng tay chụp lấy con dao của B và do B giật mạnh con dao về phía B 01 cái làm cho lưỡi dao cắt vào bàn tay trái của C bị thương tích, rồi C bỏ chạy thì B đuổi theo và cầm dao chém 01 cái hướng về phía C nhưng C đưa tay phải lên đỡ nên dao trúng vào cổ tay phải của C gây nên thương tích 18%. Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của bị hại, là khách thể được pháp luật hình sự ưu tiên bảo vệ, ngoài ra còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được rằng việc gây thương tích cho người khác là hành vi trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. [2]. Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lâm Som B, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2006 bị cáo bị Công an huyện Bình Long phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân thành người có ích cho xã hội 3 mà lại tiếp tục phạm tội mới điều đó chứng tỏ bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo. Tuy nhiên, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã chủ động bồi thường số tiền 5 triệu đồng cho bị hại, do đó khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù là mức khởi điểm của khung hình phạt và không cho bị cáo được hưởng án treo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo đưa ra thêm các tình tiết giảm nhẹ là trong vụ án này bị hại cũng có phần lỗi; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình hiện đang nuôi con còn nhỏ, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy giữa bị cáo với bị hại không có mâu thuẫn gì, khi bị hại cùng với em trai của mình quay lại muốn giải hòa với anh M (không liên quan gì đến bị cáo) và không mang hung khí gì thì bị cáo lại lấy dao chém bị hại gây thương tích là hành vi côn đồ, coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên xét phía bị hại không có lỗi. Ngoài ra bị cáo không xuất trình được tài liệu, chứng cứ có xác nhận của chính quyền địa phương chứng minh gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình phải nuôi con nhỏ. Do đó, kháng cáo của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lâm Som B phải chịu theo quy định của pháp luật. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lâm Som B; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HSST ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Tuyên bố bị cáo Lâm Som B phạm tội "Cố ý gây thương tích". Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ uật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; 4 Xử phạt bị cáo Lâm Som B 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lâm Som B phải chịu 200.000 đồng. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. Nơi nhận: - VKSND tỉnh Bình Phước; (1) - PV 06 CA tỉnh Bình Phước; (1) - TAND, VKSND huyện Hớn Quản; (2) - Chi cục THADS huyện Hớn Quản; (1) - Công an huyện Hớn Quản; (1) - Sở tư pháp; (1) - Bị cáo; (1) - Tổ nghiệp vụ; ưu; cổng thông tin điện tử; TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Nguyễn Thị Nga (đã ký) 5

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đinh Viết C

Quyết định số: 11 ngày 21/09/2018 7 17 Tên quyết định: Đinh Viết C (10.01.2019) Biện pháp xử lý hành chính: Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại việc: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ...

Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

Bản án số: 51/2018/HSST ngày 26/09/2018 10 19 Tên bản án: Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) (03.01.2019) Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại án: Hình sự ...