Chuyển đến nội dung chính

Lò Văn Th - Tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

88
ngày 26/11/2018
  • 7
  • 18
  • Lò Văn Th - Tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
  • Sơ thẩm
  • Hình sự
  • TAND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La
  • Không
  • 0
  • Lò Văn Th đang cất giấu ma túy mục đích để sử dụng thì bị bắt giữ

  • Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0




TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA –––––––––––– Bản án số: 88/2018/HS-ST Ngày 26 - 11 - 2018 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Tân Việt Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị Bống Ông Nguyễn Văn Quỳnh - Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Ngoãn - Thư ký Tòa án, Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa: Bà Đinh Thị Hằng - Kiểm sát viên. Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo: Lò Văn Th, sinh ngày 08 tháng 7 năm 1990 tại Phù Yên – Sơn La; nơi cư trú: Bản Bùa Thượng 1, xã Tường Phù, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn S; con bà: Lò Thị X; có vợ là Sa Thị H (đã ly hôn), có 1 con sinh năm 2011; tiền án: ngày 25/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; ngày 26/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" tiền sự: không; nhân thân: Năm 2005, bị áp dụng biện pháp xử lý ành chính "đưa vào trường giáo dưỡng" với thời gian 24 tháng; năm 2008 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính "đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc" với thời gian 24 tháng; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23 tháng 9 năm 2018 đến nay; "có mặt". NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 23/9/2018, Lò Văn Th đang ngồi uống nước cùng với người thanh niên tên "Tuấn" tại khu vực Công viên 2-9 thuộc địa phận khối 2, thị trấn Phù Yên thì "Tuấn" đưa cho Th 400.000đ bảo đi mua ma túy về cùng sử 1 dụng. Th cầm tiền của Tuấn đưa rồi gọi điện thoại di động cho người thanh niên tên "Hiếu" hỏi mua ma túy. Sau khi mua của Hiếu 02 gói ma túy, Th đi ra điểm hẹn với Tuấn để cùng sử dụng ma túy. Tuy nhiên, trên đường đi thì bị Tổ công tác Công an huyện Phù Yên phát hiện bắt giữ. Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Lò Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định xác định (Bút lục số 12): Gói thứ nhất chứa chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn Th có khối lượng 0,038 gam. Cơ quan điều tra đã lấy 0,038 gam (ký hiệu T) gửi giám định. Gói thứ hai chứa chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn Th có khối lượng 0,032 gam. Cơ quan điều tra đã lấy 0,032 gam (ký hiệu T1) gửi giám định. Tổng khối lượng của cả hai gói ma túy là 0,070 gam. Tại bản kết luận giám định số 1052 ngày 27/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận (Bút lục số 13): Mẫu gửi giám định ký hiệu T, T1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng T = 0,038 gam, T1 = 0,032 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,070 gam, loại Heroine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Cơ quan điều tra và của Phòng kỹ thuật hình sự nêu trên. Bản Cáo trạng số: 75/CT-VKSPY ngày 07/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Lò Văn Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn Th từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1Điều 47; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy giấy gói ma túy và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu (đựng trong phong bì do Công an huyện Phù Yên niêm phong); Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel, số IMEL1: 301014164763515, IMEL2: 301014164763523 kèm 02 sim điện thoại của Lò Văn Th. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lò Văn Th nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Kết thúc tranh luận, bị cáo trình bày lời nói sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong 2 quá trình điều tra, truy tố đã Th hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã Th hiện đều hợp pháp. [2] Bị cáo Lò Văn Th khai nhận hành vi mua ma túy rồi cất giấu để sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Kết quả cân tịnh và giám định vật chứng xác định khối lượng ma túy thu giữ là 0,070 gam, loại Heroine. Do ngày 25/4/2013, bị cáo Th đã bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; vào ngày 26/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Tính đến ngày 23/9/2018 bị cáo Th vẫn chưa được xóa án tích. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Theo tiểu mục 3.1 mục 3 phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì "Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này". Như vậy, hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Lò Văn Th đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". [3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Khi Th hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ trái phép ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn cơn nghiện ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội. Bị cáo làm nghề lao động tự do, trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật có phần hạn chế, bản thân nghiện ma túy. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo; Do đó, cần áp dụng tình tiết 3 giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ việc đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng,…", do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế còn khó khăn (Bút lục số 46). Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. [4] Về xử lý vật chứng: Đối với nilon gói ma túy và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu (đựng trong phong bì đã niêm phong). Căn cứ vào Điều 89, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, cần phải xác định là vật chứng không có giá trị, Hội đồng xét xử cần tịch thu và tiêu hủy. Việc Cơ quan điều tra đưa vào hồ sơ vụ án là không đúng quy định của pháp luật, gây khó khăn cho việc xử lý vật chứng. Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel của Lò Văn Th, bị cáo dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; Đối với người thanh niên tên Hiếu đã bán ma túy cho bị cáo Th, Bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của Hiếu. Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý. Đối với người thanh niên tên Tuấn đã đưa tiền mua ma túy cho bị cáo Th, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh Tuấn không có mặt tại địa phương. Việc Tuấn đưa tiền cho Th không có ai biết. Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cần kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ, nếu có căn cứ cần phải xử lý nghiêm đối với "Tuấn" theo đúng quy định của pháp luật. Do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo Lò Văn Th đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. [6] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ vào điểm a, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự; Căn cứ điểm a khoản 1Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. 1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Th phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". 4 Xử phạt Lò Văn Th 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 9 năm 2018 (ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ). 2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy giấy gói ma túy và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu (đựng trong phong bì do Công an huyện Phù Yên niêm phong); Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel, số IMEL1: 301014164763515, IMEL2: 301014164763523 kèm 02 sim điện thoại của Lò Văn Th. 3. Về án phí: Bị cáo Lò Văn Th phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. 4. Kiến nghị: Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ đối với người thanh niên tên "Tuấn" đã đưa tiền mua ma túy cho bị cáo Th, nếu có căn cứ cần phải xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật. 5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/11/2018). Nơi nhận: - Bị cáo; - Bị hại (nếu có); - VKSND huyện Phù Yên; Giao - Người bào chữa (nếu có); - TAND tỉnh; - VKSND tỉnh; - Cơ quan điều tra- CA huyện ; - CQ Thi hành án hình sự; Gửi - Trại TG (nhà tạm giam); - Sở tư pháp tỉnh; - Người có QL,NVLQ (nếu có); - Chi cục THADS huyện (án có hiệu lực); - Lưu: Hồ sơ vụ án, VT. TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Hoàng Tân Việt 5 6 THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA 7 8 9 10

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đinh Viết C

Quyết định số: 11 ngày 21/09/2018 7 17 Tên quyết định: Đinh Viết C (10.01.2019) Biện pháp xử lý hành chính: Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại việc: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính ...

Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)

Bản án số: 51/2018/HSST ngày 26/09/2018 10 19 Tên bản án: Vụ án Phạm Văn N bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) (03.01.2019) Cấp xét xử: Sơ thẩm Loại án: Hình sự ...