bị cáo Trƣơng Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
83/2018/HSST
ngày 05/11/2018
ngày 05/11/2018
- 46
- 65
- bị cáo Trƣơng Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 - phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy (điều 249 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
- Sơ thẩm
- Hình sự
- TAND huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước
- Không
- 0
-
bị cáo Trƣơng Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015
- Tổng số lượt được bình chọn làm nguồn phát triển án lệ: 0
1 TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HUYỆN PHÚ RIỀNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc TỈNH BÌNH PHƢỚC Bản án số: 83/2018/HSST Ngày: 05-11-2018 NHÂN DANH NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ toạ phiên tòa: Ông Lê Viết Hòa Các Hội thẩm nhân dân: Ông Tạ Văn Khách Ông Lê Trọng Tính Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hảo – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước tham gia phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Dạ Lan - Kiểm sát viên. Ngày 05 tháng 11 năm 2018 tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2018/HSST ngày 04 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Trƣơng Văn C, sinh năm: 1993, tại Bình Phước, HKTT và Chỗ ở: Ấp Thuận A, xã l, huyện p, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; Con ông: Trương Văn O–Sinh năm 1960; con bà: Nguyễn Thị C – Sinh năm: 1962; bị cáo có vợ là Phạm Thị Kim N – Sinh năm: 1998 và 01 người con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08-6-2018 cho đến nay, "có mặt". Về nhân thân: Ngày 22-8-2011 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia M, tỉnh Bình Phước xử phạt 06 tháng tù về Tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo Bản án số 107/2011/HSST ngày 22-8-2011 và đã được xóa án tích. Ngày 30-9-2012 bị Tòa án nhân dân thị xã X, tỉnh Bình Phước xử phạt 04 năm tù về Tội "Cướp tài sản" theo Bản án số 70/2012/HSST ngày 30-9-2012. Đến ngày 26-9-2015, chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống và đã được xóa án tích. 2 *Người làm chứng: Ân Đ, sinh năm 1995( Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn H, xã P, huyện R, tỉnh Bình Phước NỘI DUNG VỤ ÁN: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 07-6-2018, C thuê xe ôm đi từ xã L, huyện P đến khu vực Trung tâm đào tạo lái xe ô tô thuộc phường Tân Đ, thị xã X để gặp H (không rõ nhân thân, lai lịch) mua ma túy đá. C đưa cho H số tiền 1.000.000 đồng, đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày khi C chuẩn bị về thì H dẫn C ra đường để đón xe ôm và đưa cho C 01 bịch nylon được hàn kín bên trong có ma túy đá, C cầm gói ma túy đá cất vào túi quần bên phải và quay về nhà. Khi về đến gần nhà thì C xuống xe đi bộ, lúc này C gặp Nguyễn Công T và rủ T lên xã P, huyện R để ăn tối thì T đồng ý. Sau đó C điều khiển xe môtô chở T lên xã P. Đến khoảng 00 giờ 05 phút ngày 08-6-2018, khi T và C đến khu vực trước cổng Nhà nghỉ L thuộc thôn C, xã P thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện cùng số ma túy đá C đang giấu trong túi quần. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bịch nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen. Tại kết luận giám định số: 190/2018/GĐKTHS ngày 14-6-2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 1,2605gam. Tại Bản cáo trạng số 68/QĐ-KSĐT ngày 03 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú R, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa: Bị cáo Trương Văn C khai nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp duïng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38; 50 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Trương Văn C mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án. 3 Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ: ơ [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng số 68/QĐ-KSĐT ngày 03 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú R, tỉnh Bình Phước đã truy tố truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người làm chứng; biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; vật chứng của vụ án; kết luận giám định chất ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở đó đã xác định được: Bị cáo Trương Văn C là đối tượng nghiện hút chất ma túy. Ngày 08-6-2018 Trương Văn C đi đến khu vực Trung tâm đào tạo lái xe ô tô thuộc phường Tân Đ, thị xã X, tỉnh Bình Phước mua ma túy của đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân lai lịch) với giá 1.000.000 đồng cất giấu trong người và đưa về xã P, huyện R nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Kết luận giám định chất ma túy do bị cáo tàng trữ có trọng lượng là 1,2605gam Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức về tác hại của hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy sẽ gây ảnh hưởng rất xấu đối với sức khỏe con người và là nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị kết án tuy đã được xóa án tích nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt trong xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo nghiêm để giáo dục và phòng ngừa chung. [4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. 4 Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, áp dụng pháp luật và phần hình phạt là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện hút chất ma túy, không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo. Đối với việc C khai nhận mua ma túy của một đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) cơ quan điều tra chưa làm việc được nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét; [5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy đá hoàn lại sau giám định có khối lượng 1,0375 gam cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen, mặt sau dán lớp nhựa màu xanh C không dùng để liên lạc mua ma túy nên cần trả lại bị can. [6] Về trách nhiệm dân sự: không. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; Vì các lẽ trên; QUYẾT ĐỊNH: 1. Tuyên bố bị cáo Trƣơng Văn C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Trƣơng Văn C 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08-6-2018. 2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy được hoàn lại sau giám định; Tuyên trả đối với 01 điện thoại di động 1280 màu đen mặt sau dán lớp nhựa màu xanh cho Trương Văn C; 5 (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0011566 ngày 01-10-2018 giữa Công an huyện R và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú R) 3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Áp dụng Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 20-12-2016 về án phí, lệ phí buộc bị cáo Trương Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - TAND, VKSND tỉnh Bình Phước; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa - VKSND huyện Phú Riềng; ( Đã ký) - Chi cục THADS huyện Phú Riềng; - CA huyện Phú Riềng; - Bị cáo; người tham gia tố tụng - Lưu. Lê Viết Hòa
Nhận xét
Đăng nhận xét